Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2018

Thứ ba ngày 23.07.2018

Xin Nhấn vào đây để nghe Bài Giảng hoặc tải xuống
 
Thứ Ba Tuần 16 TN2 
Bài đọcMic 7:14-15, 18-20; Mt 12:46-50
1/ Bài đọc I14 (Lạy Đức Chúa,) xin Ngài dùng gậy chăn dắt dân
là đàn chiên, là cơ nghiệp của Ngài,
đang biệt cư trong rừng giữa vườn cây ăn trái.
Xin đưa họ tới đồng cỏ miền Ba-san và Gi-le-ad
như những ngày thuở xa xưa.
15 Như thời Ngài ra khỏi đất Ai-cập,
xin Ngài cho chúng con thấy những kỳ công.
18 Thần minh nào sánh được như Ngài, Đấng chịu đựng lỗi lầm,
Đấng bỏ qua tội ác cho phần còn sót lại của cơ nghiệp Ngài?
Người không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa,
19 Người sẽ lại thương xót chúng ta,
tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân.
Mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném xuống đáy biển.
20 Ngài sẽ bày tỏ lòng thành tín cho Gia-cóp,
và tình thương cho Áp-ra-ham,
như đã thề với tổ phụ chúng con từ thuở trước.
2/ Phúc Âm46 Người còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người.
47 Có kẻ thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy."
48 Người bảo kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?"
49 Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi.
50 Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi."


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm sao để được Thiên Chúa yêu thương và trở thành người nhà của Ngài?
Khi chứng kiến sự khôn ngoan cũng như uy quyền của Chúa Giêsu, một người cảm phục đã thốt lên: “Phúc thay dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!” Chúa Giêsu trả lời: “Hạnh phúc hơn cho những ai nghe và giữ Lời Thiên Chúa” (Lk 11:27-28).
Các bài đọc hôm nay muốn nhấn mạnh đến điều kiện để được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc, và coi như người nhà là phải nghe lời và làm theo thánh ý Thiên Chúa. Trong bài đọc I, ngôn sứ Micah cung cấp nguồn hy vọng cho con cái Israel, nếu họ muốn được Thiên Chúa xót thương và giải thoát khỏi cảnh lưu đày. Họ phải nhận ra tình yêu trung thành của Thiên Chúa và ăn năn quay về với Ngài. Trong Phúc Âm, khi được báo cáo mẹ và anh em của Chúa Giêsu đang chờ Ngài ở ngoài, Chúa Giêsu cung cấp nguồn hy vọng cho khán giả: Mẹ và anh em Ta là tất cả những ai nghe và giữ lời Ta.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thần minh nào sánh được như Ngài, Đấng chịu đựng lỗi lầm.
1.1/ Chính Thiên Chúa sẽ chăn dắt dân Ngài: Đây là những câu cuối cùng của Sách tiên tri Micah. Giống như phần đông các Sách Ngôn Sứ, Micah tuy thấy trước việc mất nước và những ngày lưu đày sẽ không tránh khỏi, nhưng ông cũng cho dân chúng một niềm hy vọng vào tương lai, nếu họ biết ăn năn hối cải.
Ông kêu gọi dân chúng nhìn lại quá khứ để biết những gì Thiên Chúa đã làm cho họ. Biến cố Xuất Hành ra khỏi Ai-cập là biến cố biểu lộ tình thương của Thiên Chúa dành cho họ. Trong biến cố này, Thiên Chúa đã làm những điềm thiêng, dấu lạ để đưa dân Israel ra khỏi nô lệ bên Ai Cập và đem vào miền đất Canaan phì nhiêu, chảy sữa và mật. Ngài cũng đồng hành với họ suốt 40 năm trường trong sa mạc. Biến cố này đã làm cho các dân chung quanh Israel phải khiếp sợ kinh hoàng.
Nếu họ ăn năn quay về, chính Thiên Chúa sẽ là mục tử chăn dắt dân chúng là đàn chiên, là cơ nghiệp của Ngài. Ngôn sứ đề cập đến hai vùng nổi danh mà người Do-thái quen thuộc: Bashan là ngọn núi cao nằm ở biên giới giữa Syria và Do-thái. Đây là một vùng đất màu mỡ vì sự kết tụ của đất và nhất là nước trào tràn khắp nơi. Nơi đây, nước từ trên núi tuyết của Bashan chảy xuống kết hợp với những sông của Syria trước khi tràn vào Biển Hồ Galilee. Bashan nổi tiếng về gỗ cây sồi, lý tưởng cho việc trồng lúa mì và chăn nuôi. Xuôi xuống miền Nam dọc theo sông Jordan là Gilead, vùng Transjordan. Vùng này cũng nổi tiếng về cây sồi, thông, và rất thích hợp cho việc chăn nuôi. Ngày nay, du khách đi dọc theo vùng này có thể thấy những cánh đồng chuối nối tiếp nhau.
1.2/ Thiên Chúa trung thành yêu thương cho dù con người phản bội.
(1) Thiên Chúa phải sửa phạt để con người biết nhận ra tội lỗi và quay trở về với Ngài, chứ không phải để tiêu diệt. Một khi con người đã nhận ra và quay trở lại, Thiên Chúa sẽ nguôi cơn giận và cứu họ, cho dù chỉ còn một số nhỏ còn sót lại.
(2) Ngài là Thiên Chúa của thương sót: Như một người cha, Thiên Chúa không vui mừng gì khi thấy con mình quằn quại trong đau khổ. Ngài cũng hiểu hoàn cảnh của con người: khi họ còn mang thân xác yếu đuối, tội lỗi là điều khó tránh khỏi. Điều cần thiết là phải biết nhận ra tội lỗi và thống hối ăn năn. Khi con người đã biết ăn năn quay về, Thiên Chúa sẽ tha thứ tất cả tội lỗi và phục hồi quyền làm con cho con người. Ngôn sứ diễn tả tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho dân chúng: “Người sẽ lại thương xót chúng ta, tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân. Mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném xuống đáy biển.”
(3) Lời Thiên Chúa hứa với các tổ phụ Ngài sẽ thi hành: “Ngài sẽ bày tỏ lòng thành tín cho Jacob, và tình thương cho Abraham, như đã thề với tổ phụ chúng con từ thuở trước.”
2/ Phúc Âm: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?"
2.1/ Thi hành thánh ý Thiên Chúa là cách thức để gia nhập gia đình Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy." Người bảo kẻ ấy rằng: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?" Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Bất cứ ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi."
Khi nói những lời này, Chúa Giêsu không có ý khinh thường Mẹ Ngài hay mối liên hệ gia đình; nhưng Ngài muốn nhấn mạnh 2 điểm:
(1) Mọi người đều có thể trở thành phần tử của gia đình Thiên Chúa, nếu họ nhận ra và thực thi thánh ý của Thiên Chúa.
(2) Cách trở thành phần tử trong gia đình Thiên Chúa khác với cách của người đời. Theo cách của người đời, một người trở thành phần tử trong gia đình, hoặc bằng cách sinh ra trong gia đình, hoặc do gia trưởng trong gia đình nhận làm con nuôi (Jn 1:13). Theo cách của Thiên Chúa, một người trở thành con Thiên Chúa bằng cách làm theo thánh ý Thiên Chúa; hay một cách rõ nét hơn: bằng cách tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa (Jn 1:12).
2.2/ Đức Mẹ là người thi hành thánh ý Thiên Chúa cách trọn vẹn: Giống như Chúa Giêsu, cả cuộc đời của Đức Mẹ là làm theo thánh ý Thiên Chúa. Chúng ta có thể trưng dẫn ba nét chính:
(1) Trong biến cố Truyền Tin: Khi sứ thần Gabriel hiện đến báo tin về Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa. Mặc dù Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh; nhưng sau khi đã nhận ra thánh ý của Thiên Chúa, Mẹ đã khiêm nhường thưa với sứ thần lời Xin Vâng: "Này tôi là tôi tớ Chúa, xin làm cho tôi như lời sứ thần truyền" (Lk 1:38).
(2) Tại tiệc cưới Cana: Khi nhận ra sự lúng túng của đôi tân hôn vì hết rượu, Mẹ đến kêu cầu với Chúa: "Họ hết rượu rồi!" Mặc dù Chúa nói với Mẹ: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến;" Mẹ vẫn căn dặn gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Jn 2:4-5).
(3) Khi tìm thấy Chúa Giêsu trong Đền Thờ: Sau ba ngày vất vả tìm thấy Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy giáo và đàm thoại với họ, mẹ Người nói với Người: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!" Người đáp: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?"
Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói. Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng (Lk 2:48-51).
  
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa luôn trung thành yêu thương dù con người bất trung phản bội. Nếu chúng ta biết ăn năn quay về, Ngài sẵn sàng giơ hai tay để đón nhận chúng ta như những người con.
- Chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa vì tin tưởng và làm theo thánh ý Ngài, chứ không phải vì liên hệ máu mủ hay vì bất kỳ lý do nào khác.

Bài Viết Mới

Thứ Năm, 19 tháng 7, 2018

Thứ hai ngày 23.07.2018

Thứ Hai Tuần 16 TN2, Năm Chẵn
 
Bài đọcMic 6:1-4, 6-8; Mt 12:38-42
1/ Bài đọc I1 Các ngươi hãy nghe điều ĐỨC CHÚA phán:
"Đứng lên! Hãy mở một vụ kiện trước các núi,
các đồi phải nghe tiếng của ngươi! "
2 Hãy nghe vụ kiện của ĐỨC CHÚA, hỡi các núi,
hỡi nền tảng vững bền của cõi đất, nghe đây!
Vì ĐỨC CHÚA đang kiện cáo dân Người,
Người tranh luận với Ít-ra-en.
3 "Dân Ta hỡi, Ta đã làm gì ngươi?
Ta đã làm chi khiến ngươi phiền lòng? Hãy trả lời cho Ta.
4 Phải chăng vì Ta đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập,
đã giải thoát ngươi khỏi cảnh tôi đòi,
đã sai Mô-sê, A-ha-ron và Mi-ri-am đến hướng dẫn ngươi? "
6 [Dân tự hỏi mình rằng: ]
"Tôi sẽ mang gì vào chầu ĐỨC CHÚA
và cúi mình trước Thiên Chúa tối cao?
Phải chăng tôi sẽ mang những lễ toàn thiêu,
những con bê một tuổi vào chầu Đức Chúa?
7 Phải chăng ĐỨC CHÚA ưa thích từng ngàn dê đực,
và hằng vạn suối dầu?
Phải chăng tôi sẽ dâng con trai đầu lòng để chuộc lỗi cho tôi,
dâng con ruột để đền tội cho chính mình? "
8 (Ngôn sứ đáp: )
"Hỡi người, bạn đã được nói cho hay điều nào là tốt,
điều nào ĐỨC CHÚA đòi hỏi bạn:
đó chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa
và khiêm nhường bước đi với Thiên Chúa của bạn."
2/ Phúc Âm38 Bấy giờ có mấy kinh sư và mấy người Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ."
39 Người đáp: "Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Giô-na.
40 Quả thật, ông Giô-na đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy.
41 Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.
42 Trong cuộc phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này, và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa.


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bụt nhà không thiêng; gần nhà gọi bụt bằng anh!
Trong Cựu Ước, ngoài Sách tiên tri Jonah, ông cũng được đề cập đến trong 2 Kings 14:25: ông là con của Amittai, người Gathhepher. Ông hoạt động dưới triều Vua Jeroboam II, đồng thời hay sớm hơn Hosea và Amos; vì thế ông được kể là tiên tri sớm nhất trong các tiên tri. Trong Tân Ước, tiên tri Jonah được đề cập đến trong Matthew 12:38-41 và Luke 11:29-32. Một số học giả chủ trương chú giải sách của Jonah như một dụ ngôn hay so sánh và loại ra ngoài tính lịch sử của sách vì 2 lý do: (1) phép lạ quá lớn không thể xảy ra; và (2) thể loại của sách là tường thuật, không phải là tiên tri. Trong phụng vụ của Do Thái, Sách Jonah được đọc trong ngày Yom Kippur (Ngày Xá Tội), vào giờ nguyện ban trưa.
Một trong những điều quan trọng nhất của thần học Do Thái là (Teshuva): họ có khả năng ăn năn trở lại và được Thiên Chúa tha thứ. Và đây là điều chính yếu trong sách của Jonah. Ông không muốn Thiên Chúa tha thứ cho kẻ thù, và vì thế ông đã từ chối không kêu gọi dân thành Nineveh ăn năn trở lại; nhưng Thiên Chúa lại muốn ngược lại: Ngài không muốn kẻ có tội phải chết, nhưng muốn nó ăn năn thống hối và được sống.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Liên hệ giữa Chúa và Israel
1.1/ Thiên Chúa kiện Israel: Thiên Chúa truyền cho Micah đi nhắc lại cho Dân Chúa biết tình yêu chung thủy của Ngài dành cho họ với sự chứng kiến của núi đồi. Tại sao cần núi đồi làm chứng? Vì con người dễ thay đổi mau quên; nhưng núi đồi không thay đổi theo thời gian; chúng đã chứng kiến từ đầu Chúa đã yêu và làm cho dân Chúa những gì: Ngài đã mang dân từ đất nô lệ của Ai Cập vào vùng đất tự do đầy sữa và mật; Ngài đã gởi đến cho dân những nhà lãnh đạo và tiên tri để điều hành và giáo dục dân chúng như Moses, Aaron và Miram.
Thiên Chúa chưa một lần bội hứa hay làm phiền lòng Israel, thế mà họ đã quay lưng lại với Ngài. Họ đã đúc tượng con bê bằng vàng để thờ và nói với nó: Đây là đấng đã cứu ngươi ra khỏi cảnh nô lệ của người Ai-cập!
1.2/ Israel đáp trả tình yêu Thiên Chúa thế nào? Họ chỉ chú trọng tới hình thức và các lễ nghi bên ngoài. Họ nghĩ sẽ làm vui lòng Chúa bằng việc giữ các ngày lễ và dâng những của lễ toàn thiêu như: con đầu lòng, trâu bò một tuổi, không tì vết … Họ nghĩ sẽ làm vui lòng Chúa bằng ngàn chiên cừu hay vạn những con sông đầy dầu ôliu để Thiên Chúa tha thứ cho những xúc phạm và tội lỗi của họ. Thiên Chúa không muốn những điều này. Ngài không đòi Israel điều gì khác ngoài việc có lòng yêu mến nhân từ, thực thi công chính, và ăn ở khiêm nhường.
2/ Phúc Âm: Một số biệt phái và ký lục đòi Chúa làm một phép lạ để họ có thể tin vào Ngài.
2.1/ Dấu lạ Jonah: Những người này có thể đã chứng kiến hay ít nhất đã được nghe những lời Chúa dạy và về các phép lạ Chúa đã làm trong Israel. Đất Israel không lớn lắm; chỉ cần những tiếng đồn loan đi là mọi người đều biết. Hôm nay họ muốn thử thách Chúa để họ thấy tận mắt dấu lạ thì họ mới tin. Chúa từ chối không thỏa mãn lời yêu cầu của họ; nhưng Ngài hứa sẽ cho thấy một dấu lạ cả thể sau này.
Dấu lạ Jonah: Ông đã từ chối không đi giảng dạy tại Nineveh. Thay vì đó, đáp tàu đi Tarsus; và sau đó đã bị ném xuống biển và bị nuốt bởi một con cá voi. Ông ở trong bụng cá 3 ngày đêm và sau đó cá đã nhả ông ra trên bờ biển. Phép lạ nữa Chúa sẽ làm là họ sẽ chứng kiến Chúa cũng sẽ ở trong mồ 3 ngày 3 đêm và sau đó sẽ sống lại và ra khỏi mồ: một phép lạ chưa từng xảy ra bao giờ. Đó là cái chết, an táng, sống lại và lên trời của chính Ngài.
2.2/ Bụt nhà không thiêng: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã thân hành đến và sống giữa dân để mặc khải, dạy dỗ những lời khôn ngoan chưa từng nghe của Thiên Chúa; đồng thời làm những phép lạ chưa từng thấy xảy ra từ tạo thiên lập địa đến giờ. Thế mà họ vẫn coi thường và thử thách Ngài như trong bài Phúc Âm hôm nay. Vì thế, Chúa cảnh cáo họ:
- Dân thành Nineveh sẽ tố cáo những người này cứng lòng vì họ đă ăn năn trở lại khi nghe Jonah giảng chỉ một lần; trong khi những người này đã được nghe và chứng kiến bao nhiêu phép lạ Người đã làm và vẫn không tin!
- Nữ Hoàng Phương Nam đã lặn lội từ xa và mang biết bao lễ vật đến triều công để được nghe sự khôn ngoan của Vua Solomon; trong khi thế hệ này đã không phải lặn lội đi xa; đã không phải trả một đồng, mà vẫn từ chối nghe lời khôn ngoan của Con Thiên Chúa!
Tại sao bụt nhà không thiêng? Có nhiều lý do; sau đây là một vài lý do chính:
(1) Đã quá quen nên không cảm thấy quí nữa và nghĩ đó là chuyện tự nhiên phải đến. Nghe Chúa giảng hay làm phép lạ lần đầu tiên, họ có thể sửng sốt và tin; nhưng nếu nghe và chứng kiến nhiều lần, họ sẽ nhàm chán và mất đi niềm tin ban đầu.
(2) Kiêu căng và vọng ngoại: Cái gì của người ngoài mới hay mới tốt; còn cái gì ở trong gia đình, làng mạc, quốc gia thì xem thường (Nathanael nói: ở Nazareth thì có gì hay? Những người Biệt phái tuy nhận ra sự khác thường nơi Chúa Giêsu; nhưng vẫn gạt đi và nói: người này không phải con ông thợ mộc Giuse và bà Maria; và anh em của ông không phải là người đồng hương với chúng ta sao? Và họ vấp phạm vì Ngài).
(3) Dạy và bắt thực hành những gì họ không thích; nhất là bắt phải từ bỏ những gì họ đã quá quen thuộc; nhất là lại tố cáo những bất công tội lỗi của họ. Con người có khuynh hướng chiều theo những gì dễ thực hành và lối sống dễ dãi hưởng thụ hơn.
Đức tin nhờ phép lạ là đức tin nhất thời. Chúa Giêsu nói với Thánh Thomas: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải sống mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa, biểu tỏ qua cuộc sống công chính và bác ái với tha nhân. Mọi lễ nghi bên ngoài sẽ vô ích nếu chúng ta không sống những mối liên hệ này.
- Trong cuộc đời, chỉ một mình Thiên Chúa là Người yêu chúng ta đích thực và các vô vị lợi. Chúng ta đừng bao giờ phản bội tình yêu trung thành của Ngài.
- Chúng ta cần phải luôn biết kính sợ Thiên Chúa. Ngài không phải như một con người để rồi khi đã chán ngán chúng ta có thể gạt qua một bên. Ngài là Thiên Chúa duy nhất của cuộc đời. 

CHÚA NHẬT NGÀY 22.07.2108

 
Xin Nhấn vào đây để nghe Bài Giảng hoặc.
Chủ Nhật 16 Thường Niên, Năm B

Bài đọcJer 23:1-6; Eph 2:13-18; Mk 6:30-34.

1/ Bài đọc I1 Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - 2 Vì thế, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau để lên án các mục tử, những người chăn dắt dân Ta: chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
3 Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều.
4 Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa. Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
5 Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA -
Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực.
Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi
trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh.
6 Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn.
Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "ĐỨC CHÚA, sự công chính của chúng ta."

2/ Bài đọc II13 Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần.
14 Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét;
15 Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người.
16 Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét.
17 Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. 18 Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.

3/ Phúc Âm30 Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. 31 Người bảo các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút." Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. 32 Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng.
33 Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. 34 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hy vọng trong thất vọng

            Trong cuộc đời, có những lúc con người cảm thấy lo âu, sợ hãi, chán nản đến tuyệt vọng, vì phải đương đầu với quá nhiều vấn đề: căng thẳng, chia rẽ, hận thù, bất an ... Thiên Chúa muốn con người phải tuyệt đối tin tưởng và hy vọng nơi Ngài, và Đức Kitô là nguồn hy vọng của mọi người, là giải pháp của mọi vấn nạn của cuộc đời.
            Các Bài Đọc hôm nay dẫn chứng sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: chỗ nào có lo âu, thất vọng, chỗ đó có hy vọng và giải quyết tuyệt vời của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, tiên tri Jeremiah tường thuật nguy hiểm của các chủ chăn vô trách nhiệm làm chiên lạc bầy và niềm hy vọng có được Người Mục Tử Nhân Lành sẽ đến chăm sóc và quy tụ chiên về. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Ephesô tường thuật sự thù địch giữa con người với Thiên Chúa, giữa Do-thái và Dân Ngoại; và niềm hy vọng Thánh Giá sẽ hòa giải những mối xa cách thù địch này. Trong Phúc Âm, các tông đồ làm việc quá tải mà vẫn không đáp ứng nổi nhu cầu săn sóc đoàn chiên. Chúa Giêsu bảo các ông hãy lui vào trong nghỉ ngơi để chính Ngài dạy dỗ và săn sóc dân chúng. 

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 
1/ Bài đọc I: Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền.
1.1/ Nguy hiểm của các mục tử không làm tròn bổn phận: Xưa cũng như nay, chúng ta luôn có những mục tử không làm tròn bổn phận của mình như tiên tri Jeremiah cảnh cáo: "Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác - sấm ngôn của Đức Chúa - Vì thế, Đức Chúa, Thiên Chúa Israel, phán như sau để lên án các mục tử, những người chăn dắt dân Ta: chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi - sấm ngôn của Đức Chúa."
            Những dấu hiệu cho thấy người chăn chiên không chu toàn nhiệm vụ người mục tử:
            - không chịu lưu tâm chăm sóc chiên: Họ không dạy dỗ cho chiên của mình biết về Thiên Chúa và các Lề Luật của Ngài. Họ không làm gương sáng cho chiên noi theo; ngược lại còn làm gương mù. Họ không quan tâm đến các nhu cầu phần hồn cũng như phần xác của chiên.
            - không yêu thương chiên cách vô vị lợi: Họ chỉ quan tâm đến lông chiên và thịt chiên của những con béo tốt, những con chiên có thể làm lợi cho họ mà thôi (Eze 34:7).
            - không bảo vệ chiên khỏi những nguy hiểm: Họ xua đuổi chiên đi cách trực tiếp hay gián tiếp, hay làm chiên lạc bầy bằng những học thuyết sai lạc hay lối sống vô luân.

1.2/ Hy vọng: Những dấu hiệu của người Mục Tử Nhân Lành:
            - chăm sóc chiên cẩn thận: Họ dạy dỗ chiên biết kính sợ Thiên Chúa và tuân hành các Lề Luật của Ngài.
            - yêu mến và lo lắng cho chiên: Họ băng bó chiên bị thương, vỗ béo chiên gầy còm, đi tìm con chiên lạc và quy tụ tất cả chiên lạc về một đàn.
            - bảo vệ chiên và sẵn sàng hy sinh tính mạng vì chiên: Họ bảo vệ chiên khỏi thú dữ giết hại, khỏi tay của những phường trộm cướp, khỏi những vùng nguy hiểm đe dọa tính mạng chiên.
            Hai cách Thiên Chúa có thể làm để chăm sóc chiên:
            (1) Hoặc Chính Chúa Thượng sẽ chăn dắt chiên như lời sấm của Jeremiah: "Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà David một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Judah sẽ được cứu thoát, Israel được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "Đức Chúa, sự công chính của chúng ta."" Thánh sử Gioan đồng nhất vị Mục Tử này với Đức Kitô (Jn 10).
            (2) Hoặc Chúa sẽ huấn luyện và gởi tới các mục tử tốt lành: "Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa. Sấm ngôn của Đức Chúa."

2/ Bài đọc II: Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét.

            Hận thù xa cách xảy ra là do sự không hiểu biết, ghen ghét, thiếu cảm thông, hay tính kiêu hãnh coi mình hay giòng giống mình trổi vượt hơn người khác. Thánh Phaolô nêu lên hai mối hận thù xa cách chính:
2.1/ Giữa con người với Thiên Chúa: "Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Giêsu Kitô, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần." Khi con người phạm tội, họ xa cách Thiên Chúa, và không xứng đáng làm con cái của Ngài. Nhưng nhờ máu của Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đổ ra, con người được sạch mọi tội lỗi và giao hòa với Thiên Chúa. Nhờ vậy, họ lại được hưởng quyền làm con cái Thiên Chúa.               

2.2/ Giữa Do-thái và Dân Ngoại: Khi con người được hòa giải với Thiên Chúa, họ cũng được đòi phải hòa giải với nhau, như lời thánh Phaolô: "Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên Thập Giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét." Có tác giả giúp chúng ta nhớ tư tưởng này bằng cách cắt nghĩa Thập Giá gồm 2 mảnh: mảnh đứng tượng trưng cho sự hòa giải giữa con người với Thiên Chúa, mảnh ngang tượng trưng cho sự hòa giải giữa con người với nhau.
            Thánh Phaolô cắt nghĩa tiến trình hòa giải giữa Do-thái và Dân Ngoại như sau: "Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người." Trước khi Đức Kitô đến, có một sự phân cách rõ ràng giữa người Do-thái và tất cả các sắc dân khác. Người Do-thái coi chỉ có họ mới xứng đáng là "Dân Riêng" của Thiên Chúa, vì Ngài đã chọn, bảo vệ, và ban Lề Luật cho họ; tất cả dân tộc khác được xếp hạng Dân Ngoại, không thanh sạch, và không được hưởng những đặc quyền như họ. Vì thế, người Do-thái sống cách biệt với các dân tộc khác, và không muốn có sự chung đụng gì với các dân tộc khác. Khi Đức Kitô đến, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được mở rộng và bao trùm tất cả mọi dân tộc. Điều kiện được cứu độ là niềm tin vào Ngài, chứ không dựa trên việc giữ Lề Luật nữa. Dĩ nhiên, Đức Kitô không hủy bỏ tất cả Lề Luật, nhưng các tín hữu vẫn phải giữ các Luật căn bản để chứng tỏ đức tin của họ.
            Để hiểu những gì thánh Phaolô nói về sự xa cách giữa người Do-thái và Dân Ngoại, chúng ta cần hiểu cách cấu trúc của Đền Thờ Jerusalem thời đó: Có 3 bức tường ngăn cách các hạng người khác nhau. Bức tường thứ nhất ngăn cách giữa người Do-thái và Dân Ngoại; người dân ngoại nào vượt bức tường này là động chạm đến người Do-thái và sẽ bị tử hình. Bức tường thứ hai ngăn cách giữa phái nam và phái nữ của người Do-thái; người nữ không được phép bước vào chỗ của người nam. Bức tường thứ ba ngăn cách giữa người giáo dân và hàng tư tế; chỉ có tư tế mới được vào trong để dâng của lễ hy sinh lên Thiên Chúa. Ngoài ra, còn có một bức màn đóng kín từ trên xuống dưới để ngăn cách giữa nơi thánh của các tư tế và nơi Cực Thánh, nơi Thiên Chúa hiện diện; chỉ có các Thượng Tế mới được vào nơi Cực Thánh trong Ngày Xá Tội, mỗi năm một lần mà thôi.
            - Khi Đức Kitô đến, Ngài đập tan các bức tường ngăn cản giữa con người với con người, như lời thánh Phaolô diễn tả: "Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và Dân Ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét." Không chỉ đập tan bức tường thứ nhất mà mọi bức tường ngăn cản giữa con người với con người: không còn Do-thái hay Hy-lạp, không còn nô lệ hay tự do, nhưng tất cả được rửa để tháp trong một Nhiệm Thể duy nhất là Đức Kitô (I Cor 12:13).
            - Hơn nữa, Đức Kitô cũng xé đi bức màn ngăn cách giữa con người với Thiên Chúa, như lời Tin Mừng diễn tả: Màn trong Đền Thờ xé ra làm hai khi Chúa Giêsu gục đầu xuống và trút hơi thở cuối cùng (Mt 27:51, Mk 15:39, Lk 23:45). Kể từ giờ ấy, con người không còn xa lạ với Thiên Chúa nữa; họ có thể trực tiếp đến với Ngài bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, chứ không cần phải qua trung gian thầy Thượng Tế, và cũng không cần đợi đến Ngày Xá Tội một năm một lần. Thánh Phaolô diễn tả tư tưởng này như sau: "Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thánh Thần duy nhất mà đến cùng Chúa Cha."

3/ Phúc Âm: Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.

3.1/ Căng thẳng nguy hiểm giữa chủ chăn và đòan chiên
            (1) Quá tải của sứ vụ tông đồ: "Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy... Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa."
            Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, làm sao các tông-đồ có thể đáp ứng mọi nhu cầu của dân chúng? Làm sao các ông có thể thăng bằng giữa đời sống cá nhân với mục vụ tông đồ?
            (2) Chiên vất vưởng không người chăn: "Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài." Làm sao để có đủ mục tử chăm sóc cho dân khi càng ngày càng ít người đi tu? Xã hội càng tiến bộ, đời sống luân lý và gia đình càng sa sút. Làm sao kiếm được các thợ rành nghề để săn sóc dân chúng?

3.2/ Hy vọng: Chúa Giêsu là giải quyết cho cả hai bên, các mục tử và đoàn chiên.
            (1) Người tông-đồ phải có thời giờ nghỉ ngơi với Đức Kitô: Chúa Giêsu nhận ra sự bận rộn trong công tác mục vụ của các tông-đồ. Để tránh cho các ông nguy cơ bị "làm việc quá độ," Ngài bảo các ông: ''Các con hãy vào trong để nghỉ ngơi một chút." Chính Ngài đi tìm chỗ nghỉ cho các ông. Đây phải là một kinh nghiệm sống cho chúng ta: Chúa không đòi chúng ta làm việc quá độ, cũng không khuyến khích sự lười biếng. Chúng ta phải giữ sao cho cân bằng, khi nào quá mệt mỏi, chúng ta phải kiếm giờ để nghỉ ngơi dưỡng sức trong Chúa; chứ không phải phí sức vào những cuộc vui chơi làm chúng ta càng mệt mỏi hơn.
            (2) Người dạy dỗ họ nhiều điều: Không phải chỉ có các mục tử là người chủ chăn, Đức Kitô là Mục Tử Tốt Lành và trên hết. Chính Ngài sẽ dạy dỗ, săn sóc, và bảo vệ dân chúng, như trình thuật hôm nay: " Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều."
 ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG: 

            - Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành: Tất cả chúng ta hãy học hỏi, đặt trọn niềm tin tưởng,  và niềm hy vọng nơi Ngài.
            - Cha mẹ hay cha xứ đều là các mục tử chăm sóc những chiên của Thiên Chúa. Trên hết mọi sự, người mục tử phải dạy cho dân biết và quí mến Đức Kitô.

            - Mỗi người chúng ta đều là các chiên của Thiên Chúa. Chúng ta phải học biết về Đức Kitô và cầu nguyện cho các mục tử của mình. Khi cầu nguyện cho họ, chúng ta đang cầu nguyện cho chính chúng ta. 

Thứ bày ngày 21.07.2108

 
Xin Nhấn vào đây để nghe Bài Giảng hoặc tải xuống

Thứ Bảy Tuần 15 TN2

Bài đọcMic 2:1-5; Mt 12:14-21
1/ Bài đọc I1 Khốn thay những kẻ nằm trên giường
toan tính chuyện xấu xa, lập mưu làm điều ác!
Vừa tảng sáng đã đem ra thực hiện
vì nắm sẵn quyền bính trong tay.
2 Muốn cánh đồng nào là chúng cướp lấy,
muốn ngôi nhà nào là chúng chiếm đoạt.
Chúng bắt giữ cả chủ lẫn nhà, cả người lẫn gia nghiệp.
3 Vì vậy, ĐỨC CHÚA phán như sau:
Ta toan tính giáng hoạ xuống gia tộc này
khiến các ngươi không rút cổ ra được,
cũng không thể ngẩng đầu bước đi, vì thời đó sẽ là thời tai hoạ.
4 Ngày ấy, người ta sẽ ngâm thơ chế giễu các ngươi,
sẽ cất lên bài ca than vãn: "Chúng tôi đã bị huỷ diệt hoàn toàn,
phần đất của dân tôi đã vào tay kẻ khác.
Than ôi, người ta lại tước đoạt của tôi,
và chia đồng ruộng của chúng tôi cho quân phản nghịch! "
5 Vì vậy, trong đại hội của ĐỨC CHÚA
sẽ chẳng ai chăng dây chia phần cho ngươi.
2/ Phúc Âm14 Ra khỏi đó, nhóm Pha-ri-sêu bàn bạc để tìm cách giết Đức Giê-su.
15 Biết vậy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó. Dân chúng theo Người đông đảo và Người chữa lành hết.
16 Người còn cấm họ không được tiết lộ Người là ai.
17 Như thế là để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a đã nói:
18 "Đây là người Tôi Trung Ta đã tuyển chọn, đây là người Ta yêu dấu: Ta hài lòng về Người. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên Người. Người sẽ loan báo công lý trước muôn dân.
19 Người sẽ không cãi vã, không kêu to, chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường.
20 Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng,
21 và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người.


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lãnh đạo trong công bằng và thương yêu.
Tiên tri Micah, người đương thời với Isaiah, Amos và Hosea (trước lưu đày, 721 BC). Trái với Amos nói tiên tri ở miền Bắc, Micah nói tiên tri ở miền Nam vùng Judah. Ông là người nông dân sinh trưởng ở Moresheth, kế cận Lakish, khoảng 25 miles Tây Nam của Jerusalem, vùng biên giới giữa Judah và Gaza hiện giờ. Có người cho ông là môn đệ của Isaiah vì nhiều chỗ trong sứ điệp của ông giống với Isaiah; ví dụ, Isa 2:2-4 and Mic 4:1-3 gần như giống nhau hoàn toàn. Có lẽ ông là người đầu tiên nói tiên tri về sự sụp đổ của Jerusalem và Judah (Mic 1:9, 12). Micah cũng là người nêu đích danh nơi sinh của Đấng Cứu Thế (Mic 5:2). Khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ san bằng mọi bất công và khôi phục lại Jerusalem và Israel (Mic 5:4). Điểm khác biệt ông hoạt động và nói tiên tri trong giới thường dân trong khi Isaiah với giới vua chúa.
Cuộc sống ông gắn liền với đất đai và đã chứng kiến nhiều cảnh bóc lột và tước đoạt đất đai của dân nghèo như chúng ta nghe trong Bài đọc I hôm nay; nên điểm chính trong sứ điệp của ông là tranh đấu cho công bằng, trả đất cho những người bị tước đoạt. Trong Phúc Âm, Matthew đồng nhất Chúa Giêsu với Người Tôi Trung của Thiên Chúa. Ngài đến để cai trị dân chúng trong công bằng và thương yêu.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Micah tố cáo các bất công trong xã hội.
1.1/ Các nhà lãnh đạo lạm dụng quyền hành: Chữ công bằng (krisis) dịch từ Do Thái (mishpat). Tĩnh từ hay đúng hơn phân từ này đến từ động từ (shapat) có nghĩa: xét xử, cai trị và danh từ (shopet) có nghĩa: quan án, thống đốc, nhà làm luật, kẻ cai trị, vua chúa. Người này có quyền lập pháp (ra và sửa luật), hành pháp (thi hành luật) và tư pháp (xét xử những người vi phạm luật); chứ không phân biệt làm 3 nghành và có những người khác nhau như ta hiện giờ.
Thường dân đến với họ để xin xét xử mỗi khi có tranh chấp kiện tụng và họ hy vọng sẽ được xét xử đúng hay công bằng. Vấn đề lạm dụng quyền thế để xét xử bất công khi người cai trị muốn bảo vệ quyền lợi của họ hay đã bị mua chuộc để được phần thắng. Để che giấu sự bất công họ phải nghĩ ra các luật khác hay viện vào sự sơ hở của luật lệ (các luật gia rất rành về điều này). Đó là lý do tại sao Micah luận tội họ: “Khốn thay những kẻ nằm trên giường toan tính chuyện xấu xa, lập mưu làm điều ác! Vừa tảng sáng đã đem ra thực hiện vì nắm sẵn quyền bính trong tay.” Họ dùng luật và quyền để tước đoạt không những đất đai và nhà cửa của dân nghèo, mà còn bỏ tù những ai dám chống lại họ.
1.2/ Các nhà lãnh đạo phải đối diện với Thiên Chúa: Quyền hành đến từ Thiên Chúa, Ngài ban quyền hành để con người cùng cai trị với Ngài; vì thế, Ngài sẽ đòi các nhà cầm quyền phải trả lời với Ngài về việc cai trị. Nếu nhà cầm quyền biết cai trị dân trong công bằng và thương yêu, Ngài sẽ cho tiếp tục cai trị; nếu không, Ngài sẽ lấy lại và trao cho người khác. Tiên tri Micah sau khi đã chứng kiến quá nhiều những bất công nơi nhà vua và các quan của Judah, ông được Chúa sai đi loan báo: Thời tai họa sẽ đến; Judah và Jerusalem sẽ bị hủy diệt hoàn toàn; vua chúa và quần thần sẽ bị lưu đày. Đất và nhà cửa đã tước đoạt của dân nghèo sẽ bị quân xâm lăng đoạt lấy.
2/ Phúc Âm: Đây là người Tôi Trung Ta đã tuyển chọn, đây là người Ta yêu dấu.
2.1/ Hai thái độ tương phản: Trình thuật của Matthew hôm nay tiếp tục hai biến cố mà các kinh sư tranh luận với Chúa Giêsu về việc giữ ngày Sabbath: các môn đệ bứt lúa ăn và Chúa chữa lành người có cánh tay bị khô bại trong hội đường. Hai thái độ được ghi nhận bởi Matthew:
(1) Thái độ muốn tiêu diệt sự sống của các kinh-sư: "Ra khỏi đó, nhóm Pharisees bàn bạc để tìm cách giết Đức Giêsu." Có nhiều lý do để các kinh-sư muốn giết Chúa: Họ bị mất mặt với dân chúng: Từ trước tới nay, ít có ai dám cãi lời họ; thế mà một người mà họ coi là vô danh, dám làm mất thể diện của họ ngay trong hội đường. Họ muốn tiêu diệt Đức Giêsu để bảo vệ quyền lợi: Khi họ thấy dân chúng đến với Chúa để được nghe những lời dạy dỗ và để được chữa lành, họ cảm thấy bị tổn thương danh dự và mất quyền lợi. Trong Tin Mừng Gioan, họ nói với nhau: Xem kìa, tất cả dân chúng đã đi theo ông ấy. Họ bị tố cáo lạm dụng Lề Luật để mưu cầu lợi nhuận và tiêu diệt: Là những người thông luật và có thế giá trong xã hội, họ có thể tìm kẽ hở và phiên dịch Lề Luật theo cách thức họ muốn; nhưng Chúa Giêsu đã vạch trần những âm mưu đen tối của họ khiến dân chúng không còn tin tưởng nơi họ nữa.
(2) Thái độ luôn bảo vệ sự sống của Đức Kitô: "Biết vậy, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó. Dân chúng theo Người đông đảo và Người chữa lành hết. Người còn cấm họ không được tiết lộ Người là ai." Chúng ta có thể nhận ra sự vô cùng nghịch lý ở đây: trong khi Đấng tạo thành sự sống đang vất vả lang thang đó đây để chữa lành và bảo vệ sự sống cho tất cả, thì nhóm kinh sư lại ích kỷ hội họp để tìm cách tiêu diệt Đấng ban sự sống và chữa lành! Lợi nhuận vật chất có sức mạnh làm con người mù quáng đến độ không còn nhìn ra sự thánh thiêng của sự sống! Vì sự sống đáng quí trọng, nên có những lúc con người phải lánh khỏi những người muốn tiêu diệt sự sống; chứ không phải lúc nào cũng phải ra mặt để đương đầu với những con người khát máu. Chúa Giêsu lánh mặt không phải vì Ngài sợ họ; nhưng có nhiều sứ vụ Ngài cần phải thi hành trước khi từ giã cuộc đời về với Chúa Cha. Khi giờ đã tới, Chúa Giêsu sẽ can đảm đổ máu và làm chứng cho sự thật. Chúa Giêsu cấm không cho họ tiết lộ tông tích để Ngài có thể đi lại dễ dàng và thi hành sứ vụ của Ngài. Rao truyền sự hiện diện và quyền năng của Người chỉ làm lợi cho những người quấy phá.
2.2/ Người Tôi Trung của Yahveh: Matthew nhìn sứ vụ của Chúa Giêsu như ứng nghiệm sứ vụ của Người Tôi Trung mà ngôn sứ Isaiah đã nói trong Bài Ca Thứ Nhất (Isa 42:1-4). Những điểm quan trọng về Người Tôi Trung được hiện thực nơi Đức Kitô:
Chúa Giêsu được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu dấu, và hài lòng. Trong biến cố chịu Phép Rửa của Chúa Giêsu tại sông Jordan, tiếng của Chúa Cha từ trời làm chứng cho Chúa Giêsu: "Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mt 3:17). Sứ vụ của Chúa Giêsu là loan báo công lý trước mặt muôn dân. Con người được công chính hóa nhờ niềm tin vào Ngài. Chúa Giêsu sẽ đưa công lý đến chỗ toàn thắng, và muôn dân sẽ đặt niềm hy vọng nơi danh Người. Cách thi hành sứ vụ của Chúa Giêsu: Khác với cách thế của các kinh-sư, những người luôn quan tâm đến danh dự, uy quyền, địa vị, và lợi lộc vật chất; Chúa Giêsu không cãi vã, không kêu to, chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường. Khác với sự mong đợi của dân Do-thái một Đấng Thiên Sai uy quyền để giải phóng dân khỏi quyền lực của ngoại bang; Chúa Giêsu dùng con đường đau khổ để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mỗi người chúng ta được kêu gọi để dự phần trong việc lãnh đạo với Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là bắt chước Người Mục Tử Nhân Lành để lãnh đạo dân Chúa trong công bằng và thương yêu.
- Chúng ta cũng thấy rõ nguy hiểm của việc lạm dụng quyền hành để bảo vệ quyền lợi và bị mua chuộc. Lãnh đạo như thế, chắc chắn chúng ta cũng sẽ phải chịu trách nhiệm trước TC.